Võ học Bình Định

"Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi quyền"

Moderator: lehavu

Võ học Bình Định

Postby tk hieu on Tue May 18, 2004 9:48 am

Năm Canh Thìn (1470), Hồng Ðức nguyên niên, vua Chiêm là Trà Toàn đem quân đánh phá đất Hóa châu, và sai người sang Tàu cầu viện nhà Minh. Vua Lê Thánh Tôn tự cầm quân, đem đại binh 20 vạn quân đánh Chiêm thành, phá được kinh đô là thành Ðồ Bàn (Vijara) và chiếm đất đến đèo Cù mông. Từ đấy, miền nầy được sát nhập vào đạo Quảng nam, đặt tên là phủ Hoài nhơn gồm ba huyện là Bồng sơn, Phù ly và Tuy viễn.

Dân các tỉnh Bắc kỳ, nhất là người Hà đông và các tỉnh miền bắc Trung phần vào đây lập nghiệp. Họ đến lấp vào chỗ trống vì có một số người Chiêm thành đã rút về phía nam. Ðể sinh tồn, họ góp nhóp vốn liếng võ nghệ của cố hương, pha trộn với các thế võ của người Chiêm, của dã thú, của gà đá... rồi sửa đổi, sàng lọc, ứng chế cho hoàn toàn thích hợp với hoàn cảnh, địa thế của quê hương mới. Ðầu tiên, hai thế võ được thông dụng là lối đánh bằng tay chân gọi là quyền và lối đánh bằng cây gọi là roi. Họ dùng khúc cây vừa làm đòn gánh vừa là vũ khí hộ thân. Gánh, có thể chịu sức nặng gấp ba lần trọng lượng của mang xách mà vẫn đi được xa. Ðòn gánh làm bằng gốc tre già, vừa chắc vừa dẻo, tiện cả hai mặt: gánh thì êm vì đòn nhún theo nhịp đi; đánh lại bền vì cây roi không bị gãy hay giập bể. Ðó là những năm tháng dài, hình thành một nền võ thuật mới mẻ, độc đáo, được cả nước quen gọi là võ Bình định.

THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1558-1771)
Từ cuối năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận hoá, lập nên xứ Nam Hà, cho đến năm Tân Mão (1771) Tây Sơn khởi nghĩa. Trong ngót hai thế kỷ, võ Bình định đã tiến một bước dài, phát triển đầy đủ các môn binh khí và đi vào nề nếp. Sự kiện chàng Lía xảy ra trong thời kỳ này còn lưu lại một bài vè dài 1336 câu, chia làm 6 đoạn, đã phản ánh phần nào tình trạng võ nghệ ở Bình định lúc bấy giờ.

Kết hợp nội dung bài vè và lời truyền tụng của dân chúng về cuộc đời của Liá, nhân vật tiếng tăm ấy có tên thật là Võ văn Ðoan, nhưng người đời quen gọi thân mật là chú Lía, quê nội ở huyện Phù ly nay là Phù mỹ, cha mất sớm, Lía theo mẹ về quê ngoại tại làng Phú lạc, tổng Thời hòa, huyện Tuy viễn, sau là thôn Phú lạc, xã Bình thành, quận Bình khê (nay đổi huyện Tây Sơn). Nhà nghèo, mẹ thường đau yếu, Liá lại còn nhỏ không làm ra tiền để nuôi mẹ. Nhiều lần Lía đến các nhà phú hộ xin bát cơm thừa hay xin được họ thuê mướn, nhưng bị từ chối và còn bị mắng nhiếc thậm tệ. Lía tự nhủ: "Dốc lòng cố giữ lòng thành, Mà trời chẳng giúp phải đành lòng tham" (vè chú Lía) nhỏ nhặt sắn khoai để cứu sống mẹ qua cơn ngặt nghèo.

THỜI KỲ CỰC THỊNH (1771-1802)
Từ năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa ở Gò Tô đất Tây sơn đến năm Nhâm Tuất (1802), vua Quang Toản bị bắt ở huyện Phượng nhãn tỉnh Bắc ninh, nền võ học Bình định mở ra một kỷ nguyên mới. Ðó là võ Tây Sơn.

Tam kiệt Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc (?-1793) anh cả, Nguyễn Huệ (1753-1792) anh thứ, và Nguyễn Lữ (?-1788) em trai út, người làng Kiên mỹ đất Tây sơn, sau này là thôn Kiên mỹ, xã Bình thành, huyện Bình khê (nay đổi huyện Tây sơn).

Trong binh đội Tây Sơn, mỗi chiến sĩ là một võ sĩ. Sự huấn luyện quân đội, cơ bản là tập võ nghệ. Người lính phải biết sử dụng tất cả, hoặc một số các binh khí truyền thống sau đây:

Quyền: lối đánh võ bằng tay chân, còn gọi là thảo bộ. Quyền gồm nhiều thảo bộ, chẳng hạn như : thảo bộ Phượng Hoàng, Tứ Hải, Thiền Sư, Ngọc Trản, Thần Ðồng, Lão Mai, Ðộc Thọ...
Hễ quyền giỏi thì roi cũng giỏi. Vì vậy quyền là môn võ tối cần. Quân Tây Sơn đã dùng chiến pháp sở trường này trong khi xung phong giáp lá cà, thanh toán chiến trường.
Roi: lối đánh võ bằng gậy, còn gọi là côn. Roi không nên lớn quá hoặc nhỏ quá, phải vừa cỡ tay nắm người sử dụng thì đường roi mới mạnh và nhanh. Có hai loại: roi trường và roi đoản. Roi trường là roi trận, dài khoảng 2,50 mét, đầu lớn là đốc roi, đầu nhỏ là ngọn roi. Người sử dụng roi trường ngồi trên ngựa và chỉ đánh một đầu. Roi đoản là roi đấu, dài "tề mi" tức là ngang lông mày người sử dụng (chừng 1,60 mét). Roi đấu cầm ở giữa thân roi nên có thể đánh cả hai đầu. Chẳng hạn đầu roi bổ xuống như trời giáng khiến đối thủ lo chống đỡ , nhưng đó chỉ là cú đánh hư. Trong lúc ấy, nhanh như chớp đốc roi thúc mạnh vào hạ thế đối thủ, đó mới là cú đánh thực. Ngày xưa, các võ sĩ thường vắt vai một khăn lông to và dài, gặp khi bất trắc, có thể dùng khăn thế roi, gọi là roi nhuyễn tiên, không phải là để đánh mà để "vung roi" che mắt đối thủ rồi xông vào hất tung binh khí.
Song sĩ: hai cây gỗ cứng kẹp dọc cẳng tay, ló ra ở hai đầu. Khi đấm hay thúc cùi chỏ thì đầu nào của song sĩ cũng có thể ấn sâu vào cơ thể của đối thủ.
Ðao: để chém và đâm. Nếu đao có lưỡi bè ra rất lớn thì gọi là đại đao.
Kiếm: gồm độc kiếm và song kiếm, lưỡi dài nhưng không quá 1 mét.
Siêu: giống như đao, nhưng cán dài. Thế võ kết hợp giữa kiếm và roi.
Thương, giáo, mác, lao đều có cán dài, dùng để đâm, đánh và phóng.
Xà mâu, đinh ba, bừa cào đều có cán dài nhưng đầu có nhiều nhánh, đường võ chậm chạp, ít thông dụng.
Lăng, khiên: tròn dẹp, có tay nắm ở tâm điểm; dùng để che đỡ khi lâm trận.
Song chùy: hình cầu bầu dục, xẻ răng cưa như cạnh khế, có cán nắm, dùng để đánh, cũng ít sử dụng.
Dây xích bằng sắt dùng để quất, lợi thế như một cây roi.
Cung, ná, nỏ dùng để bắn tên khi đối thủ còn ở xa.

Một đặc điểm của võ Tây Sơn là mỗi thế võ đều có bài thiệu đi kèm, tức là phần lý thuyết được diễn thành thơ có vần, có điệu cho dễ đọc, dễ nhớ. Người học võ, phải thuộc lòng bài thiệu, đọc đến đâu múa đến đó, lý thuyết ăn khớp với thực hành. Lối học võ này rất tiện cho việc luyện tập nhiều người cùng một lúc, được áp dụng trong trường huấn luyện quân đội của Tây Sơn.

Thời ấy còn sáng chế ra điệu trống trận Tây Sơn. Người đánh, cùng một lúc sử dụng nhiều trống, tối đa 12 cái, và phải dùng thế võ côn quyền mới đánh được. Ðánh bằng dùi cả hai đầu, gọi là roi trống, vừa đánh cả hai bàn tay, cổ tay, cùi chỏ, vai... làm cho tiếng trống phát ra những âm thanh khác nhau, nghe rất hùng tráng. Lúc ra trận, dùng hai trống lớn, đánh theo võ nhạc trận, âm thanh vang xa, dồn dập, khích động.

Chiến thuật của Tây Sơn là áp đảo đối phương từ tầm xa đến tầm gần. Xa thì có đại bác đặt trên mình voi. Khi cách mục tiêu chừng 100 mét thì dùng súng trường. Gần thì đến lượt cung nỏ, rồi hỏa hổ. Cuối cùng là xung phong cận chiến, dùng các thế võ để giải quyết chiến trường theo nguyên tắc "nhất nhân địch quần nhân".

Như vậy, đội quân Tây Sơn không cần đông mà cốt ở tinh và dũng cảm. Binh đội gọn nhẹ, di chuyển nhanh chóng, thích hợp với lối tác chiến thần tốc. Ðánh nhanh đánh mạnh, hư thực không rõ, bất ngờ thọc sâu vào kẽ hở của địch quân. Chiếm mục tiêu thì dùng tượng binh làm lá chắn, vừa là pháo đài di động cho bộ binh tiến lên. Ðó là kỹ thuật tác chiến của Tây Sơn, ảnh hưởng bởi bản chất con nhà võ.

Tương truyền các tướng Tây Sơn đều là những tay võ xuất chúng. Nguyễn Huệ sở trường về roi. Nguyễn Lữ xuất sắc về côn quyền, đã sáng chế ra Hùng Kê quyền, lấy từ các thế võ của gà đá. Võ văn Dũng rất giỏi về đao, người đời có câu truyền tụng

Phá sơn trung tặc, dị
Thắng Văn Dũng đao, nan
(Phá được giặc trong núi thì dễ, thắng được ngọn đao của Văn Dũng thì khó)

Ðặng văn Long (có sách chép là Mưu) lại quán thông cả cương quyền (ngạnh công) lẫn miên quyền (nhuyễn công) với đôi tay mạnh và cứng như sắt nên người đời thường gọi là Ðặng thiết tí. Bùi thị Xuân thì không ai bì kịp về môn kiếm.

Tóm lại, võ Tây sơn là võ truyền thống của Bình định đã được tập hợp và tinh luyện để đưa vào quốc phòng. Võ trở thành chiến lược độc đáo của Tây Sơn, thời huy hoàng nhất của võ học Bình định.

THỜI KỲ ẨN MÌNH (1802-1867)
Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh dẹp nhà Tây Sơn và lên ngôi vua, xưng đế hiệu là Gia Long. Không những nhà vua trả thù dã man đối với Tây Sơn mà còn có cả một kế sách lâu dài, nhằm tận diệt tất cả những gì có liên quan đến Tây Sơn. Vì vậy võ Tây Sơn không còn được lưu hành nữa. Các nhà võ rút lui vào bóng tối, chỉ âm thầm truyền dạy cho con cháu. Các bài thiệu cũng phải dấu trong trí nhớ và chỉ truyền miệng trong phạm vi gia đình. Ðiệu trống Tây Sơn im bặt trong những ngày lễ hội đông người. Thời kỳ này kéo dài suốt các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và đầu đời Tự Ðức. Vì thế nền võ học Tây Sơn đã bị thời gian làm mai một rất nhiều.

THỜI KỲ TRUNG HƯNG (1867-1924)
Từ khi vua Tự Ðức lên ngôi (1847), quân Pháp luôn luôn tìm cách gây hấn với nước ta để có cớ xâm chiếm. Năm 1858, liên quân Pháp và Tây ban nha đánh chiếm bán đảo Sơn trà, Ðà nẵng. Năm 1859, thành Gia định thất thủ. Năm 1861, mất Ðịnh tường (Mỹ tho), đảo Côn lôn và Biên hòa. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam kỳ là Vĩnh long, An giang, Hà tiên.

Trước tình thế khẩn trương, cần tăng cường quân đội để bảo vệ những phần đất còn lại. Ðối với Tự Ðức, đề phòng Tây Sơn không còn là việc thiết thực nhưng họa xâm lăng của Pháp thì sờ sờ trước mắt. Vì thế năm 1867, nhà vua cho thành lập trung tâm tuyển chọn võ quan ngay trên miền đất võ. Ðó là trường thi Hương võ Bình định tại thôn An thành, tổng Thời đôn, huyện Tuy viễn phủ An nhơn, nay là thôn An thành xã Nhơn lộc huyện An nhơn và chỉ cách trường thi Hương Văn (tại Hòa nghi, xã Nhơn hòa) vài cây số xuyên qua các thôn Trường cửu, Quang châu dọc theo hữu ngạn nam phái sông Côn.

Vốn sẵn truyền thống yêu thích võ nghệ, nay được nhà vua mở trường thi, tuyển chọn nhân tài, các mạch võ ẩn tàng hơn sáu mươi lăm năm qua, giờ đây bùng lên trổ hoa kết trái. Các lò võ ở Bình định mọc lên như nấm. Những đêm trăng, trong sân nhà hay trên dãy gò hoang vắng, tốp năm tốp ba, võ sinh miệt mài tập luyện.

Năm 1908, làng võ Bình định lại một lần nữa góp phần chống Pháp trong phong trào Kháng thuế tại tỉnh nhà. Các võ sĩ ở An vinh và An thái tham gia rất đông. Họ lãnh trách nhiệm trừng trị bọn tay sai của Pháp và những tên thổ hào dựa vào giặc để nhiễu hại dân lành. Căn cứ vào các châu bản triều Duy Tân trong quyển Phong Trào Kháng Thuế Miền Trung năm 1908 của Nguyễn Thế Anh (xuất bản tại Sài gòn năm 1973) thì ở huyện Bình khê có Hà Khuê, Hồ Cường, Lê Lý, Lê Hữu, Lê Thức, Võ Nghiệp... đã lùng kiếm các viên chức đắc lực của chính phủ Bảo hộ để trừng trị, tiêu biểu có tên Vinh và Giao bị nịch sát. Ở vùng An vinh (Bình Khê) và An thái (huyện Tuy viễn) có Nguyễn văn Khải lý trưởng An vinh, đã chỉ huy toán bắt cóc bọn tay sai cho giặc, tiêu biểu có tên Uẩn đền tội, xác thả trôi sông. Ở huyện Phù cát có Nguyễn Hoành đã tổ chức ám sát hai tên gian ác là Bá và Tường do phủ phái tới. Ở huyện Bồng sơn có Ðỗ Dương, Nguyễn Ðiềm, Phạm Quế, Phan Thuần đem thủ hạ khoảng 50 người cầm đao côn đến huyện đường kháng cự với lực lượng đàn áp. Ngoài ra, toán võ sĩ còn thi hành bản án tử hình đối với thường dân đã tham tiền làm do thám hay chỉ điểm cho giặc, như trường hợp nịch sát tên thợ Cẩn để làm gương.

Khoảng năm 1920, cả hai tỉnh Bình định và Phú yên mất ăn mất ngủ vì nạn cướp Dư Ðành. Võ sĩ các phủ, huyện Bình khê, An nhơn, Tuy phước, Phù cát được quan tỉnh điều động vào việc bắt cướp. Dư Ðành người làng Kiên ngãi, xã Bình thành huyện Bình khê, giỏi võ nghệ và có sức mạnh phi thường. Hắn có thể kẹp nách một con bò nghé, nhẹ nhàng như bồng một đứa bé. Người đương thời ví Dư Ðành "sức đương Hạng Võ, mạnh kình Trương Phi". Dư Ðành cầm đầu một toán cướp 11 tên. Hựu (quân sư), Phỉ, Cao, Ðen... toàn là những tên cướp tên tuổi. Chỉ có tay roi Hồ Ngạnh ở Thuận truyền là Dư Ðành né tránh, còn Bảy Lụt cũng là một tay quyền nổi tiếng ở An vinh, bị Dư Ðành và đồng bọn phục kích đánh bất tỉnh để cảnh cáo làng võ đang tìm bắt chúng:

Dư Ðành sức mạnh quá trâu
Vùng lên đánh ngã cả xâu triều đình
(Ca dao)

Xét cho cùng, thời kỳ trung hưng đã trải dài trên nửa thế kỷ, nhưng làng võ Bình định không thể có lại cảnh huy hoàng rực rỡ như thời Tây Sơn. Tuy vậy võ học Bình định thời kỳ này cũng đã phục hưng được ý hướng tốt đẹp là dạy võ, học võ để ứng thí, cứu nước và giúp đời.

THỜI KỲ NGOẠI NHẬP (1924-1945)
Từ xưa Bình định đã có câu truyền tụng: "Roi Thuận truyền, quyền An vinh", và "Trai An thái, gái An vinh" là những địa danh thuộc tỉnh, đã phát tích những dòng võ nổi tiếng và nối nghiệp cho đến bây giờ. Thôn Thuận truyền thuộc xã Bình thuận, quận Bình khê. Thôn An vinh thuộc xã Bình an, cùng huyện. Còn An thái xưa là một thị tứ, nằm trong thôn Mỹ thạnh, xã Nhơn phúc, huyện An nhơn."Roi Thuận truyền" trước xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng đến đời ông Ba Ðề thì truyền cho Hồ Ngạnh. Hồ Nhu là tên thật của Hồ Ngạnh, sinh năm 1891, mất năm 1976, thọ 85 tuổi. Ông nguyên quán thôn Háo ngãi, xã Bình an, huyện Bình khê, trú quán ở Thuận truyền, xã Bình thuận cùng huyện. Cha là ông Ðốc Năm, một võ quan của triều Nguyễn. Mẹ cũng là con nhà võ. Ngay từ lúc bé, ông đã được cha mẹ dạy võ gia truyền. Lớn lên, ông học roi của cao sư Ba Ðề, học nội công của ông Ðội Sẻ, tiếp đến học roi của ông Hồ Khiêm. Ðường roi kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, lại thêm nội công nên cứng cáp và sâu hiểm vô cùng. Từ roi thế, roi đấu, roi chiến đến roi trận, ông đều tinh thông và độc đáo. Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông đã vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú. Nghe danh, học trò đến thọ giáo rất đông. Con trai chết sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, nay là võ sĩ Hồ Sừng. Học trò lớp lớn có ông Mười Mỹ (sinh năm 1912) ở Trường úc xã Phước nghĩa huyện Tuy phước được riêng dạy ngón độc chiêu bí truyền. Học trò lớp sau có Ðinh văn Tuấn ở Qui nhơn, đang độ sung sức, nối nghiệp làm vẻ vang cho lò võ Thuận truyền.

"Quyền An vinh" có từ lâu, nhưng cũng chỉ biết từ đời ông Hương mục Ngạc. Lò võ này còn có ông Năm Nghĩa, cũng là bạn đồng môn đồng khóa, nhưng sau lại chuyên về roi. Hương mục Ngạc học quyền Bình định rồi học thêm quyền Tàu của ông Khách Bút. Sở dĩ ông nổi tiếng là nhờ tổng hợp được nhiều nguồn võ khác nhau, tạo nên tay quyền xuất sắc nhất trong làng võ Bình định đương thời. Ông có ba người con là Bảy Lụt, Tám Cảng (nữ) và Chín Giác đều tinh thông võ nghệ. Ông dạy nhiều học trò, có người nổi tiếng như Hai Tửu. Bảy Lụt chẳng những xuất sắc về võ thuật mà còn gan dạ và có sức mạnh đáng kể, với tay không có thể vật ngã một con trâu đực đang sung sức. Bảy Lụt truyền nghề cho Phan Thọ. Sau này Phan Thọ còn học thêm võ trận Tây Sơn với ông Sáu Hà nên đã tiếp thu được cả tinh hoa quyền An vinh từ mạch võ Hương mục Ngạc lẫn võ chiến của Tây Sơn. Hiện nay lò võ Phan Thọ ở thôn Thủ thiện huyện Bình khê vẫn đông học trò dù ông nay đã vào tuổi thất tuần.

An thái cũng có những dòng võ nổi tiếng mà câu ca dao nói đến Hội Ðổ Giàn tại chùa Bà ở vùng này đã đề cập:

Tiếng đồn An thái, Bình khê
Nhiều tay võ sĩ có nghề tranh heo

Nhưng đến năm 1924, một biến cố xảy đến cho làng võ Bình định nói chung và dòng võ truyền thống của làng An thái nói riêng. Ðó là sự xuất hiện của môn phái quyền Tàu. Người sáng lập ra môn phái này là ông Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An thái. Tuy là người Tàu nhưng dòng dõi ba đời đều ở An thái, bà nội và mẹ ông đều là người Việt. Ở quê mẹ, gia đình và bản thân Tàu Sáu đã hấp thụ tinh thần thượng võ nên khi được 13 tuổi, ông được gửi về Tàu để học võ từ những cao sư Bắc phái Thiếu lâm. Sau 15 năm ròng rã tầm sư học võ, ông Tàu Sáu lúc bấy giờ đã 28 tuổi, trở lại An thái, mở trường dạy quyền Tàu, sở trường hai môn Hổ quyền và Long quyền. Ông dạy võ gần 50 năm, môn đệ rất đông, không bao lâu phái quyền Tàu Thiếu lâm của ông đã rải khắp miền đất võ và riêng ở An thái, võ quyền truyền thống đã bị quyền Tàu lấn át làm lu mờ. Có người vì thế sửa lại câu truyền tụng từ xưa ra "roi Thuận truyền, quyền An thái".

Dân Bình định đến với lò võ Tàu Sáu, có người vì xuất thân chuyên về quyền Tàu như Ðào Hoành, Hải Sơn; có người chỉ để bổ túc cho tay roi võ truyền thống được cứng cáp thêm như Mười Mỹ.

Trong thời kỳ này, ngoài võ Thiếu lâm của Tàu Sáu còn có võ Thái cực đạo, võ quyền Anh cũng xâm nhập làng võ Bình định và được người Pháp nâng đỡ để giảm bớt ảnh hưởng của võ truyền thống. Chính phủ Bảo hộ thường tổ chức những cuộc đấu võ đài đến chết mới thôi. Cảnh tượng ghê rợn, trên đài có một cỗ quan tài để sẵn. Các lò võ cố luyện cho gà nhà những cú đánh tàn bạo, độc hiểm để thủ thắng càng nhanh càng tốt, vì thế gây nên sự thù hằn, hiềm khích giữa các lò võ. Ðó chính là mục đích "chia để trị" của thực dân. Tuy nhiên vẫn có những nhà võ ý thức được điều đó. Họ khước từ những cuộc thách thức tranh tài, chỉ đóng cửa truyền võ để khỏi mất dòng và để tự vệ.

THỜI KỲ TRẦM LẮNG (1945 đến nay)
Cuộc chiến kéo dài 30 năm với vũ khí tối tân; côn, quyền, gươm, giáo không còn tính cách quyết định cho cuộc chiến nữa. Số người học võ để đi thi đã chấm dứt từ lâu. Học võ để phòng cướp hay làm mưa làm gió như Dư Ðành cũng không còn. Hội Ðổ giàn, tục Tranh Heo đã mai một từ khi khói lửa lan tràn. Số người học võ tuy dần dần giảm bớt nhưng tinh thần thượng võ đã trở lại với ý nghĩa chân chính.

Trong ý nghĩa tìm về cội nguồn, tưởng nhớ đến người sáng lập võ Tây Sơn, năm 1960, nhân dân toàn quận Bình khê đã chung sức lập xong đền thờ Tam Kiệt Tây Sơn tại nền đình cũ đã bị phá hủy thời Việt minh. Nguyên khuôn viên ấy là vườn nhà của gia đình ba anh em Tây Sơn. Vua Thái Ðức (Nguyễn Nhạc) lên ngôi, cho xây dựng thành một nhà từ đường khang trang. Khi Gia Long diệt Tây Sơn, ra lệnh san phẳng ngôi nhà. Sau dân làng lập ngôi đình làng Kiên mỹ tại đó và bí mật thờ Tam Kiệt Tây Sơn.

Ðền thờ Tây Sơn có ba gian. Gian giữa thờ Quang Trung Hoàng đế. Hai gian bên thờ vua Thái Ðức và Ðông Ðịnh vương Nguyễn Lữ. Trước sân đền đặt tượng bán thân của vua Quang Trung và dựng bia ca tụng ngài.

Cũng từ năm 1960, hằng năm cứ vào ngày mùng 5 Tết Nguyên đán, tỉnh Bình định lại tổ chức trọng thể lễ Ðống đa. Trong ngày lễ hội có biểu diễn võ trận và trống trận Tây Sơn. Người xem hội từ các nơi đổ về đông nghẹt đường.

Năm 1972, hội Võ thuật Bình định được thành lập, thành phần sáng lập viên gồm có: các võ sư Hà Trọng Sơn, Huỳnh Liễu, Lý Xuân Tạo, Nguyễn Nghè, Nguyễn Thông, Nguyễn văn Thành, Thanh Hoàng, Thành Nở, Xuân Sơn Quảng và ba huấn luyện viên là Lý Thành Nhân, Nguyễn Thành Công, Xuân Trường Tịnh. Thanh Hoàng có tên thật là Nguyễn Bính, sinh năm 1935, người thôn An phú xã Phước lộc, huyện Tuy phước được bầu làm Tổng thư ký. Tôn chỉ của hội là bảo tồn và phát triển võ Bình định. Hoan nghênh các phái võ khác hội nhập vào làng võ Bình định làm phong phú thêm cho nền võ học tỉnh nhà; nhưng cương quyết ngăn chặn các môn võ ngoại lai đang muốn đồng hóa võ truyền thống.

Một điều quan trọng là từ năm 1972 hội võ thuật Bình định được thành lập với đầy đủ các môn võ của Bình định. Trước đó chỉ có Phân cuộc Quyền thuật Bình định được thành lập mà thôi và trực thuộc vào Tổng cục Quyền thuật Sài gòn.

Lại nữa, võ Bình định cũng được phổ biến rộng rãi qua các võ đường ở Sài gòn và các tỉnh, như võ đường Sa Long Cương ở Sài gòn do sư trưởng Trương Thanh Ðăng người Bình định tổ chức, dạy cả võ Bình định lẫn võ Thiếu lâm.

Thời kỳ này có những nhà sư nổi tiếng về võ Bình định như thượng tọa Bửu Thắng, tuổi ngoài 80, trụ trì chùa Quang Hoa huyện Tuy phước, là tay roi chiến thượng thặng; sư Hạnh Hòa, khoảng ngũ tuần, trụ trì chùa Long phước, huyện Tuy phước, một tay võ danh tiếng; sư chú Vạn Thanh, 30 tuổi, cũng ở chùa Long phước, tay roi tay đao đang thời kỳ sung sức.

Vào đầu thập niên 1970, một ngôi sao lóe sáng trên vòm trời võ học Bình định: nữ võ sĩ Thanh Tùng của miền sông Côn. Chưa ai thấy cô thắng trên võ đài hay từng tranh tài cao thấp với ai, người ta chỉ thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung dịp lễ Ðống Ða biểu diễn các bài quyền như Lão Mai Ðộc Thọ hay bài roi như Tấn Nhất Ô Du là đã đủ khiếp.

Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ nhiên. Thanh Tùng là con nhà võ, đời đời nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của một dòng võ cao thủ. Ông nội của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người đồng thời và xứng tài với Hồ Ngạnh. Thân sinh cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai trò đứng đầu hàng võ tại địa phương. Rồi đến Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa của con nhà võ.

Học võ thì phải học luôn cả thuốc võ để tự chữa trị những chấn thương do đánh võ gây nên. Tuy nhiên trong trường hợp thương tích quá nặng thì phải tìm đến các thầy thuốc võ chuyên môn. Họ cũng trong đội ngũ làng võ Bình định, vì phải xuất thân từ những lò võ danh tiếng mới học được các bài thuốc bí truyền. Một số danh sư về thuốc võ như : võ sư Hồ Ngạnh, Hoà thượng Huyền Ân trụ trì chùa Bích Liên huyện An nhơn, Lê văn Chương ở thị trấn Bình định, Minh Tân Phạm Hà Hải ở Qui nhơn... tiếc rằng Hồ Ngạnh và sư Bích Liên đã qua đời, nhưng trong làng thuốc võ Bình định còn biết bao danh sư khác nối tiếp được chân truyền.

Ngày nay, lớp người trên dưới 60 tuổi đang giữ vai trò nòng cốt cho làng võ Bình định, tuy không nhiều nhưng rải khắp nơi trong tỉnh. Ở Qui nhơn có Ðinh văn Tuấn, tác giả cuốn Võ thuật Cổ truyền Bình định; Kim Ðình gốc người Hoài nhơn; Nguyễn Lê Thanh. Ở Bình khê có Hồ Sừng (cháu nội Hồ Ngạnh), Phạm Thi, Phi Long. Huyện Tuy phước có Thanh Hoàng (cựu Tổng thư ký hội Võ thuật Bình định) ở Cầu Gành, Hồng Khanh, Minh Tinh (con võ sư Xã Hào) ở Trường úc, Ðào văn Thanh ở Phước thuận và Trần Can ở ngả ba Diêu trì, cả hai đều thuộc mạch võ của Hà Trọng Sơn; nhà chùa thì có các sư Hạnh Hòa, Vạn Thanh ở chùa Long phước, huyện An nhơn có Lý Thành Nhân (con võ sư Lý Xuân Tạo) ở Ðập Ðá, Vũ Lê Cang. Huyện Phù cát có võ sư Trần Diễn. Và các huyện phía bắc là Phù mỹ có Kim Hòa, ở Hoài nhơn có Nguyễn văn Chức, Nguyễn Thành Tín...

Mạch võ Bình định như một dòng sông, lúc uốn khúc, lúc bằng phẳng, khi vơi khi đầy, nhưng với khí thế của đất trời "ba dòng sông chảy, ba dãy non cao, biển đông sóng vỗ dạt dào, tháp kia làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh", dòng chảy ấy không bao giờ dứt.
tk hieu
Thành viên
 
Posts: 11
Joined: Wed Apr 07, 2004 2:39 am
Location: Chợ Lớn - Sài Gòn
Blog: View Blog (0)
Top

Post a reply

Smilies
em22 em36 em26 em39 em29 em35 em31 em34 em32 :D :) ;) :( :o :shock: :? 8-) :lol: :x :P :oops: :cry: :evil: :twisted: :roll: :!: :?: :idea: :arrow: :| :mrgreen: :geek: :ugeek:
Quote Selected
 

Return to Võ thuật và võ nhân Bình Định

Who is online

Users browsing this forum: Alexa [Bot] and 0 guests